TẠI SAO VIỆT NAM MẤT GẦN HẾT THÁC BẢN GIỐC?

Tại sao khi kết thúc chiến tranh biên giới phía Bắc với Tàu cộng vào năm 1988, Thác Bản Giốc vẫn còn nằm trên lãnh thổ Việt Nam 100%? Sau khi nhận 16 chữ vàng và 4 tốt của thiên triều Trung cộng thì VN chỉ còn chừng 1/4 Thác Bản Giốc!
**
Ông anh Phây cứ bảo, thực tế đi mới thấy, mình vẫn giữ được phần đẹp nhất của thác Bản Giốc. Nhưng nhìn trên bản đồ thì thấy phần đẹp nhất của thác Bản Giốc nằm bên Trung Quốc, và nó không ngăn đôi, mà cong lẹm vào phần thác bên VN rất rõ.
Ngày bé đi học, trong sách giáo khoa luôn có ảnh thác Bản Giốc, và nó đi vào tiềm thức của mỗi đứa trẻ VN.
Nhưng giờ đây có kẻ đã cắt nó dâng cho ngoại bang. Thù này phải trả. Một ngày nào đó đường biên giới phải trả lại như xưa.
Nguồn: FB Đặng Bích Phượng
**
Trần Đức Lương Đã Mở Cửa Biên Cương Cho Trung Quốc.
Ở những vùng rẻo cao từ Lạng Sơn đến Hà Giang, từ thác Bản Giốc đến suối Lũng Pô, không ai còn lạ với câu nói đầy cay đắng: “Đất mình đó, nhưng giấy tờ nói không phải nữa rồi.” Và cái tên gắn liền với ký ức đau buốt ấy, không ai khác, chính là Trần Đức Lương vị Chủ tịch nước Việt Nam đã ký Hiệp ước Biên giới đất liền với Trung Quốc vào ngày 30 tháng 12 năm 1999, mở đầu cho việc dời mốc, đổi cột, và rút lui.
Được miêu tả là một người trầm lặng, xuất thân kỹ trị, ông Trần Đức Lương không nổi bật trên chính trường bằng những diễn văn nảy lửa hay cử chỉ quyết liệt. Nhưng chính vì thế mà cái bắt tay của ông với Bắc Kinh càng khiến người dân vùng biên giới cảm thấy đau đớn, một sự lặng lẽ đến tàn nhẫn, khi đất cha ông rơi khỏi bản đồ mà không một tiếng súng, không một lời hỏi dân.
Không có một văn bản chính thức nào công bố Việt Nam đã mất bao nhiêu diện tích sau hiệp định. Nhưng từ lời kể của người dân, từ bản đồ cũ và thực địa, giới nghiên cứu và các nhóm độc lập cho rằng Việt Nam đã mất ít nhất 15.420 km², một diện tích không nhỏ, tương đương cả một tỉnh.
Và họ không nói vu vơ. Họ chỉ vào từng ngọn đồi, từng con suối, từng con đường mòn, từng thửa ruộng bị rào chắn. Họ gọi tên
-Ải Nam Quan (Lạng Sơn), nơi từng là biểu tượng biên giới, nay không còn thuộc về Việt Nam. Người dân chỉ biết ngậm ngùi: “Mấy đời nay tiễn đưa, giờ đến nhìn cũng không được.”
-Thác Bản Giốc (Cao Bằng), dòng thác từng là niềm tự hào, giờ phần chính nằm bên phía Trung Quốc. Du khách sang thăm cứ tưởng đó là đất của họ từ thuở nào.

Thác Bản Giốc cho du khách đến với Cao Bằng - Ảnh: TTXVN
-Đỉnh Đức Thánh Trần (Móng Cái, Quảng Ninh), nơi đặt đền thờ và ghi công đuổi giặc Nguyên, giờ thuộc quyền kiểm soát phía bên kia.
-Mèo Vạc, Đồng Văn (Hà Giang), nhiều vùng bị cắm mốc lùi, người dân mất đất, mất nương mà không biết lý do. Họ chỉ biết mốc cũ không còn nằm đó nữa.
-Suối Lũng Pô (Lào Cai), nơi sông Hồng vào đất Việt, cũng bị uốn cong lại bởi “đàm phán”.
Những người giữ rừng nay bị cấm vào vùng họ từng sống cả đời.
Người dân biên giới không làm chính trị, họ chỉ biết ai là người ký. Và họ nhắc mãi cái tên Trần Đức Lương như một dấu mốc thời gian, trước ông thì đất còn, sau ông thì đất mất. Có thể ông không đơn độc. Có thể ông chỉ làm theo “quyết định tập thể”. Nhưng trong mắt người dân, chữ ký ấy là của ông và lịch sử không thể xóa tên ông khỏi trang biên giới bị đẩy lùi.
Người ta thường nói về chiến tranh biên giới 1979 như một giai đoạn giữ nước, nhưng ít ai dám nhắc đến cuộc rút lui 1999 như một vết thương âm thầm. Và Trần Đức Lương là nhân vật chính trong bản hòa ước không một người dân nào được xem trước.
Nếu cái gọi là “ổn định biên giới” mà phải đánh đổi bằng mất đất, mất di tích, mất cả quyền được biết thì đó không phải là hòa bình, mà là sự nhượng bộ có văn bản. Người dân vùng biên, những người sống bám đất, canh núi, giữ rừng nay trở thành người ngoài cuộc trong chính vùng đất của mình.
Và trong lịch sử cận đại Việt Nam, dù nhiều nhà lãnh đạo từng để lại tranh cãi, nhưng không ai bị gọi tên nhiều ở biên giới như Trần Đức Lương đã mở cánh cửa đất nước cho Trung Quốc bước vào, không bằng xe tăng mà bằng mực ký.
No comments:
Post a Comment