1* Mở bài
Ngày thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đưa tin như sau:
“Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nói quan hệ Việt-Trung vẫn “phát triển tốt đẹp” và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu thuẫn gia đình’.
Ông Thanh nói:”Trên thực tế, ngay ở trong
quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống
chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới,
lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” (Phùng Quang Thanh)
Ông Thanh ví cuộc tranh chấp như mâu
thuẩn trong một gia đình rất đúng. Về mâu thuẩn gia đình thì Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN đã xin cho Việt Nam được làm
một khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được
“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam
thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành
cần thiết cho việc “gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)
Mâu thuẩn trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là hiện thực, Tây Tạng và Tân Cương là một chứng minh cụ thể.
GS Carl Thayer cho biết: “Giới chức Việt
Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể”, do đó
ta có thể nhận ra ‘mâu thuẫn gia đình’ nằm trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã
bắt đầu”. Đó là lời xác nhận của một cán bộ Việt Cộng cao cấp thuộc Bộ
Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao,
đã tuyên bố sau Hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990.
Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố như thế thì có
thể tin tưởng được Hội nghị Thành Đô đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc
thuộc. Đó là đại sự của quốc gia cho nên ông không có thể nói chơi cho
vui miệng, vì lời nói có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp chính trị
của ông. Bị mất chức.
Bài nầy nêu những bằng chứng cụ thể để
chứng minh hoạt động của hai bên Việt-Trung trong chương trình 30 năm về
mọi mặt gọi là “đại cuộc”, và ngụy trang bằng cụm từ “16 chữ vàng”
Do kinh nghiệm ở hai khu tự trị Tây Tạng
và Tân Cương, chính quyền trung ương ở Bắc Kinh đã kiềm chế CSVN bằng
cách đã cấy sinh tử phù và đặt chiếc vòng kim cô lên đầu CSVN cho nên
những tên Hán ngụy hiện nay như cá nằm trên thớt, vô phương cục cựa.
Giang Trạch Dân đã cho CSVN thời gian 30
năm để tiến hành sự kiện vĩ đại đối với Việt Nam cho nên gọi đó là “đại
cuộc” và việc thực hiện chương trình 30 năm nằm trong khuôn khổ “16 chữ
vàng”. Vì thế cứ mỗi lần có tranh chấp thì Bắc Kinh khuyên nhũ Việt Cộng
hãy vì “đại cuộc”, và CSVN luôn luôn cam kết thực hiện 16 chữ vàng.
Tuyên bố của Phùng Quang Thanh thật đúng là lời thú tội kinh hoàng đối với người Việt trong nước.
Cho dù Wikileaks không tiết lộ, xem như
không có biên bản đó, thì xuyên qua những hành động mà đảng CSVN đã thể
hiện và nhiều người đã xác nhận đó là hành động bán nước.
2* Đảng Cộng Sản Việt Nam xin được làm một khu tự trị trực thuộc Bắc Kinh
Wikileaks xác định văn kiện đó là một trong 3,100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tài liệu chi tiết như sau:
“Biên bản buổi họp kín giữa Nguyễn Văn
Linh , Tổng Bí Thư đảng CSVN, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại
diện phía Việt Nam, và Giang Trạch Dân, TBT/CSTQ, Lý Bằng, Thủ tướng, đã
họp 2 ngày từ 3 và 4-9-1990, tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ”.
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ
Nghĩa Cộng Sản, đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung
Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố hết
sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân
dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày
công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng
chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc
Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng
Tây”.
“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN “giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)
3* Bí mật của chương trình 30 năm sát nhập Việt Nam vào Trung Cộng
Hội nghị tái lập bang giao giữa hai nước
được tổ chức công khai vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại Thành
Đô, Tứ Xuyên, nhưng nội dung CSVN xin được sát nhập vào đại gia đình các
dân tộc Trung Quốc là bí mật.
Cho mãi đến khi Wikileaks phổ biến tài
liệu mật đó thì người Việt ở nước ngoài mới biết đến, nhưng đối với đa
số người trong nước thì nó vẫn còn là một bí mật. Vì thế, để lừa bịp
nhân dân Việt Nam, chương trình 30 năm mà hai đảng Cộng Sản nầy thực
hiện được ngụy trang dưới những từ ngữ mỹ miều như “đại cuộc”, “phương
châm 16 chữ vàng”, “hợp tác chiến lược toàn diện”, “Ủy ban Chỉ đạo Hợp
tác toàn diện”…
Những cụm từ nêu trên là cái nhãn hiệu che giấu chương trình 30 năm ở Thành Đô.
Wikileaks không phải là căn bản để đánh
giá, nó không phải là bằng chứng, cho nên có nó hay không có nó không
quan trọng, mà hành động cụ thể là CSVN thi hành đối với Trung Cộng mới
chính là bằng chứng bán nước. Hành động bán nước của đảng CSVN được xác
định qua những hành động cụ thể một cách chính thức bằng những văn bản
của những tuyên bố chung và hành động mà Đảng CSVN đã làm.
4* Sự ra đời của “16 chữ vàng”
- 1. Bước mở đầu
Tháng 11 năm 1991, sau hội nghị Thành Đô,
lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Sự
giao lưu, hợp tác giữa hai bên về các lãnh vực chính trị, kinh tế, quân
sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá… được mở rộng, nâng lên tầm cao là bước
đầu của việc hội nhập.
Trung Cộng cho biết con đường hợp nhất
của hai nước vô cùng thuận lợi vì đó là những đặc thù về địa lý tự
nhiên, chế độ chính trị, văn hoá, xã hội và vận mệnh của hai dân tộc,
của hai đảng được xem như một.
“Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”
Việt Trung tuy hai mà một, tương nhập là lẻ tất yếu và hợp tình, hợp lý.
4.2. Trung Cộng khởi tạo phương châm 16 chữ vàng
Tiếp tục thúc đẩy tiến trình bí mật 30
năm Thành Đô, Giang Trạch Dân đưa ra chiêu bài để ngụy trang là phương
châm 16 chữ vàng. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu nhất trí ngay và cam kết luôn
luôn thực hiện với quyết tâm cao độ để hoàn thành “đại cuộc” đó.
Thế là phương châm 16 chữ vàng ra đời từ
đó. Bản tuyên bố chung về 16 chữ vàng chính thức được Giang Trạch Dân và
Lê Khả Phiêu ký vào tháng 2 năm 1999.
16 chữ vàng:
Láng giềng hữu nghị (mục lân hữu hảo),
hợp tác toàn diện (Toàn diện hợp tác), ổn định lâu dài (Trường kỳ ổn
định), hướng tới tương lai (Diện hướng vị lai).
Tháng 11 năm 2000 khi tân Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh sang diện kiến thì Giang Trạch Dân nhắc đến và nhấn mạnh,
phương châm 16 chữ vàng là cái khung chỉ đạo căn bản và nhất quán để
Việt Nam phát triển quan hệ với Bắc Kinh. Cũng giống như những người
tiền nhiệm, Nông Đức Mạnh hạ quyết tâm thực hiện nội dung của 16 chữ
vàng.
5* Thực hiện chương trình 30 năm trên cơ sở 16 chữ vàng
- 1. Nội dung chương trình
Chương trình 30 năm Thành Đô được các đời
Tổng bí thư CSVN ký kết qua những bản tuyên bố chung về hợp tác toàn
diện để Việt Nam hội đủ điều kiện sát nhập vào đại gia đình các dân tộc
Trung Quốc.
Hợp tác toàn diện về các mặt:
- Việc quản lý đảng, quản lý nhà nước thông qua những cuộc thăm viếng của các lãnh đạo cao cấp hai bên.
- Giao lưu về các mặt: chính trị, kinh tế thương mại, quân sự, văn hóa, hữu nghị nhân dân…từng bước nâng lên tầm cao mới sẵn sàng cho ý nguyện hội nhập theo tinh thần của hội nghị Thành Đô năm 1990.
- 2. Những bước cụ thể đã được thực hiện
- 2.1. Hợp tác toàn diện về việc quản lý đảng và quản lý nhà nước
Các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước
hai bên liên tục có những cuộc viếng thăm quan trọng, không ngừng vun
đắp quan hệ hợp tác toàn diện, từng bước nâng lên tầm cao mới để đáp ứng
“nguyện vọng của nhân dân hai nước” là hội nhập vào đại gia đình các
dân tộc Trung Quốc.
1). Những lãnh đạo Trung Cộng sang thăm Việt Nam
Từ tháng 11 năm 1992 đến năm 2013 đã có 8 lãnh đạo cao cấp Trung Cộng đến thăm và làm việc với lãnh đạo đảng CSVN.
Thủ tướng Lý Bằng (tháng 11 năm 1992).
Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch Đàng (tháng 11, 1994 và tháng 3, 2002). Chủ
tịch nước Giang Trạch Dân (tháng 6, 1996). Thủ tướng Chu Dung Cơ (tháng
11, 1996). Thủ tướng Ôn Gia Bảo (tháng 12, 1996).
Từ 31-10 đến 2-11-2005 Hồ Cẩm Đào kinh lý
Việt Nam. Đó là chuyến viếng thăm cao cấp nhất, đầy đủ cương vị: Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy TW, là bước ngoặt quan trọng
thúc đẩy Việt Nam hội nhập vào Trung Quốc.
Sau đó là viếng thăm của Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Quốc Cường. Ngoài ra còn có nhiều lãnh đạo cấp thấp tới lui rộn rịp.
2). Về phía lãnh đạo Việt Nam sang chầu thiên triều
Tất cả những Tổng bí thư, chủ tịch nước,
Chủ tịch quốc hội và thủ tướng đều phải qua diện kiến lãnh đạo Trung
Cộng. Tổng bí thư, chủ tịch nước đều phải ký những bản Tuyên bố chung
xác định quyết tâm thúc đẩy, hợp tác toàn diện trên phương châm 16 chữ
vàng và 4 tốt mà thực chất là hoàn tất chương trình 30 Thành Đô, sát
nhập vào “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Ngoài những bản tuyên bố chung, Việt Nam
bị bắt buộc phải thành lập “Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Toàn Diện” để làm
việc một cách cụ thể với Ủy ban Hợp tác Toàn diện của Trung Cộng.
Phiên họp lần thứ tư, phiên họp lần thứ 5 Ủy ban Chỉ đạo Hợp Tác Toàn Diện
Vì sao phải thành lập ủy ban chỉ đạo hợp
tác toàn diện? Một quốc gia độc lập chỉ cần xác định chính sách ngoại
giao là đủ. Khi cần thì ký những hiệp ước, những thỏa thuận riêng biệt
cho mỗi vấn đề.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (phải) và thượng tướng Mã Hiểu Thiên
Việt Trung hợp tác toàn diện về quốc phòng
- 2.2. Hợp tác toàn diện về kinh tế với Bắc Kinh
1). Thiết lập những nguyên tắc luật pháp căn bản về kinh tế
Năm 2005, trong số 44 hiệp định và thỏa
thuận về kinh tế và thương mại, Việt Nam và Trung Cộng đã có 20 văn bản
thỏa thuận làm căn bản pháp lý trong quan hệ giữa Việt Nam với các địa
phương bên Trung Cộng. Đó là: Hiệp định thương mại, Hiệp định mua bán
vùng biên giới, Hiệp định thành lập Ủy Ban Việt-Trung về kinh tế và
thương mại.
Hiệp định giao thông đường sắt cao tốc và
đường bộ, đường hàng không để lưu thông hàng hóa giữa địa phương với
trung ương Bắc Kinh.
Từ ngày 1-1-2004 Việt Nam và Trung Cộng
thực hiện bãi bỏ thuế xuất, nhập khẩu. Các cặp cửa khẩu hai bên đã được
khai thông tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông tự do, mở ra một thời kỳ
giao lưu hàng hóa không biên giới giữa hai bên.
2). Kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào chính quyền trung ương Bắc Kinh
Hợp tác toàn diện về kinh tế thương mại
- Về đầu tư xây dựng
Nhà thầu Trung Cộng hầu như thắng thầu
hầu hết những công trình quan trọng với loại thầu trọn gói EPC, còn gọi
là “hợp đồng trọn gói” hay “hợp đồng chìa khoá trao tay”.
EPC là Engineering , Procurement and Construction. (Thiết kế, mua sắn, xây dựng).
Hiện nay có 90% gói thầu EPC được giao
cho Trung Cộng thực hiện, bao gồm những dự án lớn và quan trọng về năng
lượng (nhà máy điện), kim loại, hoá chất…điều nầy cho biết Việt Nam đã
lệ thuộc vào Trung Cộng rồi.
b. Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
Tại hầu hết các chợ lớn như Đồng Xuân,
chợ Hôm, chợ Ngã Tư Sở, chợ Xanh, chợ Long Biên, chợ Ninh Hiệp… tràn lan
các mặt hàng Trung Quốc
Hàng hóa độc hại Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
Thương lái Trung Cộng xâm nhập vào các
vùng sâu, dùng thủ thuật giá, mua những thứ như cây tràm cỗ ở Quảng
Ngãi, và những thứ không biết để làm gì, nhưng đã để lại những tác hại
vô cùng to lớn. Đó là đánh phá thị trường VN.
Nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp giá
rẻ, mà không được kiểm soát về chất lượng, vệ sinh, an toàn, thậm chí
có những mặt hàng Trung Cộng mà dán nhãn sản xuất ở VN. Nhiều trường hợp
dán cờ Trung Cộng trên các sản phẩm bày bán ở các siêu thị VN.
Hàng hóa rẻ tiền của Trung Cộng chiếm
lĩnh thị trường Việt Nam, giết chết các công ty trung bình và nhỏ trong
nước, đưa đến công nhân thất nghiệp.
- Nhập siêu của Việt Nam chứng tỏ lệ thuộc kinh tế
Năm 2013, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa
Trung Cộng (TC) 36tỷ 960 triệu USD, trong khi đó xuất khẩu chỉ có 13tỷ
960 triệu USD. Đó là nhập siêu. Sự chênh lệch về cán cân mậu dịch nầy
khiến cho VN phụ thuộc vào TC.
TS Lê Đăng Doanh nêu nhận xét: “Mức nhập
siêu to lớn nầy gây sức ép rất nặng khiến cho VN phụ thuộc vào TC: mất
ngoại tệ, mất thị trường trong nước, công nhân mất việc. Khi người dân
mua hàng hóa TC đồng nghĩa với việc trả lương cho công nhân nước nầy”.
- 2.3. Hợp tác toàn diện về văn hóa giáo dục
1). Việt Nam cam kết giáo dục nhân dân về 16 chữ vàng và 4 tốt
Ngày 21-2-2013, Nguyễn Thiện Nhân, ủy
viên BCT dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao sang Bắc Kinh. Hai bên đã ký một
thỏa thuận hợp tác toàn diện cho giai đoạn 5 năm từ 2014-2019.
Nguyễn Thiện Nhân, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo
dục, cam kết, với tư cách Chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc VN
(MT/TQ/VN), ông sẽ vận động quần chúng nhân dân thực hiện tốt 16 chữ
vàng và 4 tốt để hoàn thành tốt thoả thuận của hai bên từ khi bình
thường hóa năm 1990. Ông Nhân cho biết MT/TQ/VN sẽ triển khai chức năng
và nhiệm vụ mới trong Hiến pháp 2013 là “giám sát phản biện xã hội” để
tăng cường hiểu biết của nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam sẽ thực hiện Cung Văn hoá
Việt-Trung tại Hà Nội. Trong 15 năm, kể từ 2005 Việt Nam đã cử hơn 100
đoàn đại biểu văn hóa trên các lãnh vực: báo chí, âm nhạc, điện ảnh,
kịch nghệ, truyền hình sang tham quan học hỏi và trình diễn ở Bắc Kinh.
2). Giáo dục thanh niên
Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam (Nguyễn
Thiện Nhân) và Bí thư Thứ nhất TƯ Đoàn Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Nguyễn
Đắc Vinh giao lưu với các đại biểu thanh niên hai nước
Hữu nghị giữa hai đoàn thanh niên khu tự trị VN & Trung Quốc
Theo một hiệp định, mỗi năm Trung Cộng
cấp 130 suất học bổng cho sinh viên VN, đồng thời VN chỉ cấp 15 học bổng
cho sinh viên Trung Cộng, có nghĩa là Bắc Kinh đào tạo cán bộ tương lai
cho họ.
Việt Nam đưa những đoàn thanh niên sang
thăm viếng, hợp tác hữu nghị với thanh niên sắc tộc của các khu tự trị.
Nổi bật nhất là Liên hoan thanh niên VN-TQ được tổ chức vào ngày
26-11-2013, 3,000 thanh niên do Nguyễn Thiện Nhân hướng dẫn tham dự liên
hoan. Trong diễn văn, ông Nhân cho biết: “Đây là dịp để thế hệ trẻ hai
nước kết chặt quan hệ hai đảng, hai nước, không ngừng đơm hoa kết trái,
vun đắp tình hữu nghị của hai dân tộc”.
Định hướng dư luận, Lập Viện Khổng Tử, nằm trong hợp tác văn hoá giáo dục cho thanh niên.
16 chữ vàng và 4 tốt là chiêu bài ngụy
trang cho chương trình 30 năm để VN hội nhập vào đại gia đình các dân
tộc Trung Quốc, nói thẳng ra là chương trình bán nước của đảng CSVN.
- 2.4. Trung Cộng di dân vào Việt Nam
Bọn Tàu khựa vào Việt Nam không cần Visa
nhập cảnh, nên tự do đi luông tuồng như đi vào Tây Tạng, Tân Cương, Mãn
Châu, Nội Mông. Bọn họ đã có mặt trên khắp hang cùng ngỏ hẻm của đất
nước Việt Nam. Trong 65 khu chế xuất, khu công nghiệp, không nơi nào
vắng bóng người Hoa cả.
Chúng chiếm đóng các vị trí chiến lược,
từ việc thuê đất 306,000 hecta trong 50 năm với giá rẻ mạt ở biên giới
phía Bắc, từ Bauxite Tây Nguyên đến Cà Mau, có thể thành lập nhiều sư
đoàn của đạo quân thứ năm với những công nhân, mà thực chất là binh sĩ,
tình báo, đặc công. Họ nắm trong tay những bản đồ vị trí các nhà máy
điện, nhà máy quốc phòng, cơ xưởng…
Những người di dân tạo lập thành những khu riêng biệt của người Hoa mà công an Việt Nam không được vào đó để kiểm soát.
1). Khu phố Tàu Bình Dương
Tờ Việt Báo tại hải ngoại có bài viết tựa đề: “Cờ Trung Quốc treo rợp Bình Dương: Dân Việt có nguy cơ mất đất”
Theo bài báo thì “Cờ Trung Cộng treo tưng
bừng tại Bỉnh Dương để mừng Quốc Khánh lần thứ 90 của Trung Cộng bởi vì
người Hoa đang cư ngụ đông đảo ở Phố Tàu nơi đây.
Một bài viết có tựa đề “Phố người Hoa,
Rừng người Hoa, sòng bạc người Hoa,…và người Hoa” còn đưa ra quan ngại
rằng “trong một tương lai không xa, con cháu người VN sẽ không còn được
sống trên quê hương mình”.
Bài báo viết tiếp:
“Sau Casino của người Hoa ở Đà Nẳng chỉ
dành cho người nước ngoài, lại đến khu phố dành riêng cho người Hoa ở
Bình Dương, nơi mà người Việt cũng không được bén mảng tới. Vậy trong
tương lai, người Việt sẽ chỉ được sử dụng một phạm vi bao nhiêu bởi vì,
biển, rừng, đô thị đều có bóng dáng của người Hoa.
Phố Tàu là khu vực riêng biệt của cộng
đồng người Hoa, người Việt khó chen chân vào. Phố Tàu ở Bình Dương mang
tên Trung Tâm Thương Mại Đông Đô Đại Phố, trong đó có một trường Đại học
quốc tế Miền Đông, một bịnh viện 1,000 giường, một khu phức hợp: thể
thao, hội nghị, tiệc cưới, một sân golf, các cửa hiệu thương mại và một
khu giải trí.
Bọn Tàu khựa sinh hoạt theo phong tục tập
quán của họ và luật pháp Việt Nam bị bỏ ra ngoài. Nhân viên công lực VN
không được vào kiểm tra cần thiết để nắm quyền kiểm soát khu vực.
Ngay cả nghĩa địa người Hoa ở Việt Nam cũng là một khu vực riêng biệt bất khả xâm phạm. Vậy hỏi quyền lực quốc gia còn đâu nữa?
6* Những bản tuyên bố chung của lãnh đạo CSVN
- 1. Thỏa thuận 4 điểm của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Ngày 22-8-2006, Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh thúc đẩy tăng cường quan hệ toàn diện và nhất trí với Hồ Cẩm Đào 4 khía cạnh:
Thứ nhất. Lãnh đạo cao cấp hai bên phải duy trì “quan hệ gần gũi” thông qua những cuộc viếng thăm cấp cao.
Thứ hai. Quan hệ kinh tế thương mại phải được nâng lên nấc thang cao mới, cụ thể hơn.
Thứ ba. Vấn đề lãnh thổ phải luôn luôn đạt được “sự đồng thuận”, bảo đảm ổn định lâu dài. (Nếu đồng thuận thì ổn định)
Thứ tư. Hai bên thống nhất về chính sách ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển bền vững và hữu nghị.
Năm 2009, tỉnh Hải Nam và Việt Nam nhất trí hợp tác toàn diện về chiến lược quân sự.
(Tại sao một quốc gia lại phải hợp tác với một tỉnh của quốc gia khác?)
- 2. Bản tuyên bố chung của Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ngày 15-10-2011
- Hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước.
- Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
- Hai bên đã nhìn lại và tổng kết 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ (1990), khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau.( Thôn tính tương lai)
- 3. Bản tuyên bố chung của Trương Tấn Sang
Trong bản tuyên bố chung ngày 21-6-2013 được ký bởi Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, có đoạn ghi như sau:
– Dân sự: Đào tạo nhân
dân, văn hóa, giáo dục, y tế, sản xuất, chế biến. Khai thác lãnh thổ,
lãnh hải, đất liền, biên giới, cửa khẩu, biển Đông, rừng núi, đầu tư,
khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, môi trường, nông nghiệp, ngư
nghiệp, dầu khí, giao thông, vận tải và du lịch.
– Chính trị: Xây dựng
nguồn máy đảng, và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tham vấn chính
phủ, ban tuyên giáo, ban đối ngoại trung ương, ban lý luận, đào tạo hữu
nghị quân, dân, cán chính cao cấp.
– Quân sự: Quân đội, quốc phòng, khí tài, an ninh, ngoại giao.
Kế hoạch toàn diện qui định mỗi bộ phận đặt đường dây nóng tự quản và kết nối quản trị Bắc Kinh.
(Đường dây nóng tự quản với Bắc Kinh là nhận lịnh trực tiếp từ chính quyền trung ương ở Bắc Kinh)
Ngoài ra, đảng CS và nhà nước Việt Nam, ưu tiên để 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam được hưởng
đặc quyền khai thác toàn diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam, như
Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Người Trung Quốc được hưởng qui chế “bất xâm phạm” từ khi có mặt tại Việt Nam để thi hành công tác khai thác toàn diện trên lưng người Việt Nam.
“Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các tỉnh, khu vực của hai nước,
nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, hợp tác toàn diện với 4 khu tự
trị của Trung Quốc gồm có: Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam”.
Trước hết Trung Cộng muốn Việt Nam hội
nhập với 4 khu tự trị để trở thành 5 khu tự trị gồm có: Mãn, Tạng, Hồi,
Mông và khu tự trị mới là Việt Nam. Và cờ Trung Cộng trở thành 6 ngôi
sao mà VN đã dùng để chào mừng Tập Cận Bình vừa qua.
Thực tế là chỉ có 3 tỉnh của Trung Cộng
mà đòi hợp tác toàn diện với 7 tỉnh Việt Nam, tạo điều kiện dễ dàng và
hợp pháp cho thương lái, nhân viên Trung Cộng được đi khắp mọi nơi để
nắm tình hình các mặt, biết rõ địa hình địa vật, đường đi lối về, tài
nguyên, khoáng sản, đặc sản để khi cần thì xử dụng.
Trên Facebook, nhà bình luận Trần Trung
Đạo nêu nhận xét như sau: “Đọc bản tuyên bố chung mới thấy số phận chùm
gởi của CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già Cộng Sản Trung Quốc đến
mức độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ trong một
văn bản 8 điểm mà có tổng cộng 29 lần “nhất trí”.
7* Cộng Sản Việt Nam bị cấy sinh tử phù
Trung Cộng đang nắm trong tay những con
bài tẩy bằng văn bản chính thức đã được các lãnh đạo CSVN ký và cam kết
thi hành. Công hàm bán nước Phạm Văn Đồng chỉ là con bài thứ nhất mà
thôi. Những lá bài khác như biên bản bí mật ở Thành Đô năm 1990 và những
bản tuyên bố chung đã được ký kết như đã nêu trên.
Thiên la địa võng đã bày ra để khống chế
và trừng trị Hán ngụy Việt Nam nếu phản chủ. Các vị trí chiến lược chủ
yếu như rừng đầu nguồn, Lào, Campuchia, Tây Nguyên, hệ thống giao thông
cao tốc xuyên Việt…và những sư đoàn của đạo quân thứ năm dưới lớp áo
công nhân, thương nhân…khiến cho số phận của lãnh đạo CSVN thê thảm như
con cá nằm trên tấm thớt của Trung Cộng.
Khi Tập Cận Bình niệm thần chú thì bộ tứ “hùng dũng sang trọng” vừa ôm đầu vừa gật đầu lia lịa.
8* Vì sao Trung Cộng không muốn đưa nội vụ ra tòa án quốc tế?
Ngày 2-6-2014 báo South China Morning
Post tường thuật rằng ngày 1-6-2014 Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí
Vịnh cho biết Hà Nội vẫn chưa quyết định bao giờ sẽ yêu cầu toà án trọng
tài quốc tế phân xử tranh chấp, nhưng nói đó là tùy thuộc vào hành động
của Trung Quốc.
Trước đó, Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết
là VN đã chuẩn bị bằng chứng cho hồ sơ pháp lý nầy, nhưng mọi việc sẽ do
Bộ Chính Trị quyết định.
Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ lại lên tiếng là kiện chẳng ăn thua gì.
Có thể dùng câu “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” để biết bản chất của CSVN trong vấn đề nầy.
Vì sao Trung Cộng không muốn nội vụ được đưa ra toà án quốc tế?
Không phải TC sợ bị thua kiện, vì họ đã
có khả năng vô hiệu hóa vụ kiện 100% bởi quyền phủ quyết ở HĐ/BA/LHQ, mà
cũng không phải vì Trung Cộng sợ dư luận quốc tế, vì nếu sợ thì đã
không làm ngang tàng như thế..
Điều mà Trung Cộng mong muốn là “những
mâu thuẩn trong gia đình” phải để gia đình giải quyết. Tập quán Á Đông
là nếu đưa chuyện nội bộ gia đình ra ngoài thì chẳng khác gì “vạch áo
cho người xem lưng”. Điều Trung Cộng muốn là Việt Nam phải là một trong
đại gia đình các dân tộc Trung Quốc mà Nguyễn Văn Linh đã lặn lội từ Hà
Nội đến Thành Đô để thỉnh cầu hồi năm 1990.
Đây là phép thử, xem CSVN có đủ can đảm để thoát ra đại gia đình các dân tộc TQ đó không?
Nếu quan sát kỹ những tuyên bố của Nguyễn
Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh và Trần Công Trục nêu trên, thì có thể đoán
được lãnh đạo CSVN vẫn còn hèn nhát, vì không dám phản chủ, nên chỉ dám
nói mà không dám làm. Hơn nữa Việt Cộng đã bị cấy sinh tử phù và niền
chiếc vòng kim cô lên đầu rồi thì chẳng còn hành động can đảm nào nữa
cả.
Hãy chờ xem!
9* Kết luận
Giả sử như Wikileaks không tiết lộ biên
bản bí mật ở hội nghi Thành Đô năm 1990, hoặc xem như không có nó, thì
những hành động của đảng CSVN cũng đã bị lên án là bán nước, hèn nhát vì
đã đặt đất nước, dân tộc Việt Nam dưới tay bọn Trung Cộng. Sự thật hiển
nhiên đó không thể chối cãi được.
Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng từ
lâu rồi. Ông Vương Gia Thụy, Trưởng ban Đối ngoại Trung Cộng, đã nêu
những bằng chứng cho thấy Việt Nam đã được sát nhập vào Trung Cộng, như
sau: “Việt Nam và Trung Quốc đã hợp tác chiến lược toàn diện. Cơ chế xã
hội giống hệt nhau. Con đường phát triển tương tự như một. Quan hệ hai
nhà nước ổn định và cùng một mục đích phát triển chấn hưng sự nghiệp Xã
Hội Chủ Nghĩa”.
Đảng CSVN là tội đồ của dân tộc. Hãy đối
chiếu với di chúc của vua Trần Nhân Tông thì thấy rõ ngay. Nhà vua di
chúc: “Cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Một tấc đất của tiền
nhân để lại cũng không để lọt vào tay kẻ khác. Ta để lời nhắn nhũ nầy
như là một lời di chúc cho muôn đời con cháu về sau” (Vua Trần Nhân
Tông)
“Các vua Hùng có công dựng nước. Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán nước!”.
Trúc Giang
No comments:
Post a Comment