3A: Hai Miền Nam Bắc sau Hiệp Định Genève
Sau trận chiến Điện Biên Phủ, hiệp định Geneve được ký kết mang lại hòa bình cho Đông Dương. Kể từ đó:
1) Việt Nam tạm thời chia ra 2 nước
2) Phía Bắc sông Bến Hải là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tổ chức chính trị xã hội theo hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa (Cộng Sản) dưới quyền cai trị của ông Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam
3) Phía Nam sông Bến Hải là nước Việt Nam Cộng Hòa tổ chức xã hội theo hệ thống Tư Bản Chủ Nghĩa (Tự Do) với hệ thống tam quyền phân lập trong đó quyền lập pháp thuộc về Quốc Hội lưỡng viện do dân trực tiếp bầu ra.
4) Mỗi bên tự xây dựng đất nước của mình trong hòa bình, sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất tổ quốc Việt Nam.
Mục tiêu của Hiệp Định là mang lại hòa bình cho Đông Dương, và cho người dân Việt có cơ hội tiếp xúc, thực thi việc xây dựng các kiểu chính thể và tìm hiểu kiểu chính thể nào hiệu quả hơn cho đất nước. Sau đó, chính người dân sẽ chọn lựa chính thể cho mình bằng một cuộc bỏ phiếu minh bạch.
Trước khi việc chia cắt được thực thi triệt để, có một khoảng thời gian giành cho người dân hai miền tự do di chuyển tìm đến nơi mình muốn sống. Chính quyền không được ngăn cản mà phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển này.
Miền Nam đã tuân thủ hiệp định. Các cán bộ theo Cộng Sản đang ở miền Nam có những điểm tập kết an toàn để được chuyển ra miền Bắc. Những cán bộ thời chiến tranh nay không muốn theo Cộng Sản nữa thì được ở lại miền Nam mà không chịu sự phân biệt, kì thị nào. Họ vẫn được làm việc sinh sống, con cái họ vẫn được đi học bình thường.
Người dân miền Bắc không chấp nhận chế độ Cộng Sản di cư vào miền Nam được chính quyền tiếp nhận và tổ chức định cư chu đáo. Chính quyền bắt tay xây dựng các chương trình quốc kế dân sinh. Hệ thống giáo dục, chương trình giảng dạy từ tiểu học tới đại học… được nâng tầm với sự cố vấn của các nước tự do. Sự trao đổi văn hóa giáo dục khoa học với Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Canada, Úc… nở rộ. Dân chúng được hưởng nền giáo dục phổ cập tới lớp 9 (nghĩa là trẻ em đi học do chính phủ đài thọ, gia đình không phải trả bất kì chi phí giáo dục nào).
Đây là một hệ thống giáo dục tiến bộ so với các nước châu Á thời đó. Hệ thống y tế liên hoàn và tương đối hoành chỉnh bao phủ các tỉnh và thành phố. Tại Sài Gòn những bệnh viện công và tư khang trang bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế đạt tiêu chuẩn cao so với châu Á. Các bệnh viện công, mà người dân gọi là nhà thương thí vì không phải trả tiền (như Chợ Rẫy, Bình Dân…) cũng sạch đẹp mà không có tình trạng một giường hai bệnh nhân… Những kế hoạch kinh tế như Khu Công Nghiệp tập trung Nhà Bè (mà nếu không có chiến tranh đã trở thành một kiểu như Khu Chế Xuất Tân Thuận sau này, nhưng được tiến hành trước đó vài chục năm, đoạt tiên cơ phát triển so với các nước trong vùng), các vùng nông nghiệp chuyên canh… Cho tới cuối những năm 1950, trước khi cuộc chiến xâm lăng của miền Bắc vào miền Nam bùng nổ lớn, miền Nam vẫn còn xuất khẩu lúa gạo, nông sản, GDP/đầu người bằng 220% của Thai Lan, bằng 149% của Hàn Quốc. Nền kinh tế Việt Nam đầy triển vọng với giá trị đồng tiền vững vàng… Các giá trị sống đạo đức được tôn trọng…
Một cuộc sống hậu chiến thanh bình đầy đủ điều kiện phát triển…
Miền Bắc thì không như vậy. Rất nhiều người dân người dân miền Bắc muốn vào Nam sinh sống, nhưng chính quyền Cộng Sản đã dùng nhiều biện pháp ngăn chặn.
Do chính quyền Cộng Sản chưa nắm được toàn bộ miền Bắc, hơn nữa đang có sự hiện diện của các quôc gia kiểm soát đình chiến, nên hơn một triệu người đã thoát được vào Nam. Kẻ ở lại bị kì thị triệt để. Miền Bắc còn tổ chức cho các cán binh của họ tại miền Nam chôn vũ khí tại các nơi bí mật, ở lại miền Nam theo chính sách điều lắng, mai phục chờ ngày tiến công.
Khi “Bức Màn Tre” buông xuống trên miền Bắc, mọi khuynh hướng nghiêng về tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tinh thần pháp trị… bị đàn áp triệt để. Chiến dịch “Trăm Hoa Đua Nở” bỏ tù và bức tử nghề nghiệp hàng loạt các nhà báo, nhà văn hóa có tư tưởng cách tân, có tinh thần tự do học thuật, tranh luận. Đây thực chất là một chiến dịch “Cải Cách Ruộng Đất” trong lãnh vực văn hóa, tư tưởng.
Từ đó về sau, miền Bắc chỉ có một đảng lãnh đạo: đảng Cộng Sản Việt Nam, một thần tượng: ông Hồ Chí Minh, một lập luận tuyên truyền: lập luận của ban Tuyên Huấn, một lẽ sống: chiến đấu dưới lá cờ đảng Cộng Sản Việt Nam, một lẽ phải: tất cả những ai không theo đường lối của đảng Cộng Sản Việt Nam đều là kẻ địch…
Tất cả đã được chuẩn bị cho một cuộc chiến lâu dài.
Nhiều người tiên đoán cuộc Tổng Tuyển Cử chưa chắc được tổ chức như qui định trong hiệp định Genève. Và trong thực tế, vì nhiều lý do, cuộc Tổng Tuyển Cử đã không được tiến hành.
Bộ máy tuyên truyền cho cuộc chiến của đảng Cộng Sản Việt Nam trên miền Bắc, vốn đã hoạt động âm thầm, nay mở hết công suất theo một cách thức toàn trị, nghĩa là tất cả báo chí, đài phát thanh cùng hệ thống tuyên truyền ngày đêm phát ra cùng một giọng điệu:
1) Chế độ miền Nam không tuân thủ hiệp định Genève, cản trở việc tổ chức Tổng Tuyển Cử
2) Mỹ là thực dân mới, thi hành chế độ thuộc địa mới tại miền Nam để khai thác tài nguyên thiên nhiên và nhân lực miền Nam
3) Chế độ miền Nam dâng miền Nam cho Mỹ
4) Chế độ miền Nam lê máy chém giết hại đồng bào yêu nước, bỏ thuốc độc giết tù chính trị…
5) Chế độ miền Nam thực chất là chính quyền Ngụy, là chế độ bán nước cho Mỹ, tiếp tay Mỹ đày đọa, bốc lột thậm tệ dân chúng miền Nam và biến họ thành nô lệ
6) vân vân…
Sau “Bức Màn Tre”, không một tin tức trung thực nào về đời sống ấm no và tiến bộ của miền Nam đến người dân miền Bắc.
Chỉ có một chiều dối trá:
dân chúng miền Nam đang sống đời nô lệ khổ đau, đang bị bốc lột cùng cực bởi chế độ Mỹ Ngụy, đang bị nô dịch bởi chế độ thực dân mới xấu xa nhất…
Do đó, miền Bắc cần Giải Phóng Miền Nam, giành độc lập cho miền Nam, cứu dân miền Nam khỏi kiếp nộ lệ đói nghèo…
Giải Phóng Miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước
Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước
Ôi xương tan máu rơi
Lòng hận thù ngất trời… (Lời ca khúc Giải Phóng Miền Nam)
Thế là miền Bắc, chưa kịp hưởng thanh bình mấy bữa, đã, với “lòng hận thù ngất trời”, dốc tất cả nhân lực và tài lực vào cuộc chiến xâm lăng miền Nam anh em hiền hòa. Trong thời đại phi cơ, hỏa tiễn, bom nguyên tử…, tuổi trẻ Việt Nam được đốc thúc “cầm gươm ôm súng xông tới”, đối đầu với các loại vũ khí tối tân của của đội quân hùng mạnh và văn minh nhất thế giới! Phải tiêu diệt kẻ thù miền Nam cho dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”!
Hàng triệu sinh mạng, trong đó đa số đang lứa tuổi thanh xuân, bị đốt cháy trong lò lửa chiến tranh. Hàng triệu con người “sinh Bắc tử Nam”, trở về quê trong quan tài hay bị mất tích trong chiến tranh, trở thành phế nhân trên quê hương tan nát, điêu tàn… để ngày 30/4/1975 những chiếc xe tăng T54 của quân miền Bắc húc đổ cổng sắt tiến vào dinh Độc Lập, tổng hành dinh của miền Nam. Các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam bước lên đài thống trị toàn bộ đất nước!
3B: Hậu Quả của Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước
Dưới đây là các Hậu Quả dễ thấy của Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước:
1) Đẩy dân tộc vào một cuộc chém giết khủng khiếp. Một phần rất lớn sinh lực của đất nước bị thiêu cháy trong lò lửa chiến tranh chống lại cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Các ước tính cho rằng khoảng 8-10 triệu sinh mạng bị cướp đi. Miền Bắc mất 5-6 triệu, miền Nam mất 3-4 triệu. Nếu so sánh với con số 58 ngàn lính Mỹ thiệt mạng trên chiến trường Việt Nam, chúng ta thấy hơn 99% số thương vong là của người Việt! Cuộc chiến này, dù được trang điểm dưới bất kỳ ngôn từ hoa mỹ nào, cũng không che đây được bản chất nội chiến.
2) Tàn phá toàn bộ nền kinh tế đất nước. Đẩy miền Nam Việt Nam từ phồn vinh xuống đói nghèo.
Đảng CSVN thường tuyên truyền rằng họ có công giải phóng dân chúng miền Nam khỏi đời nô lệ nghèo đói. Đây là một trong nhiều dối trá khủng khiếp của đảng CSVN mà người dân Việt Nam cần nói lên sự thật.
Tác giả xin trình bày các số liệu sau:
GDP/đầu người (USD)
1960 | 1965 | 1970 | 1975 | |
Nam Việt Nam | 223 | 123 | 130 | 44 |
Thái Lan | 101 | 192 | 138 | 351 |
Nam Hàn (Hàn Quốc) | 155 | 279 | 106 | 608 |
Năm 1954, Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến với Hiệp Định Genève. Miền Nam Việt Nam bắt tay kiến thiết xã hội, phát triển kinh tế, và tới năm 1956 thì kinh tế Nam Việt Nam bắt đầu tăng trưởng dương. GDP/đầu người năm 1960 cho thấy kinh tế miền Nam Việt Nam phồn vinh hơn hẳn Thái Lan và Nam Hàn (223 USD so với 101 USD của Thái lan và 155 USD của Nam Hàn). Tại châu Á, nếu tính theo GDP/đầu người, miền Nam Việt Nam chỉ thua có Nhật (479 USD), và gần với Mã Lai (299 USD), hơn hẳn Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Nam Hàn…
Khoảng năm 1957, miền Bắc phát động cuộc chiến xâm lấn miền Nam, bắt đầu với chiến tranh du kích. Năm 1960 Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập, chiến tranh càng lan rộng. Từ năm 1964, khi Mỹ đưa quân vào miền Nam bảo vệ Tự Do (1965), đảng Cộng Sản Việt Nam gia tăng cường độ chiến tranh và toàn bộ miền Nam trở thành bãi chiến trường.
Rất tương ứng với các biến chuyển của thời cuộc chiến tranh, GDP/đầu người các năm 1965, 1970 và 1975 cho thấy kinh tế miền Nam Việt Nam biến chuyển từ phồn vinh trở thành yếu kém rồi rất yếu kém so với Thái Lan và Nam Hàn. Từ gấp đôi Thái Lan năm 1960 thành một phần tám của Thái Lan năm 1975. Từ gấp rưỡi Nam Hàn năm 1960 thành ít hơn một phần mười ba của Nam Hàn năm 1975.
Cuộc chiến tranh Giải Phóng Miền Nam rõ ràng đã đẩy dân chúng miền Nam từ đời sống giàu có vào nghèo đói.
Thực ra, cuộc chiến đã tàn phá kinh tế toàn bộ đất nước. Nếu tính GDP/đầu người chung cho toàn bộ Việt Nam, gồm cả miền Nam và miền Bắc, thì năm 1960 con số ước tính là là 148 USD, năm 1970 là 120 USD và năm 1975 là 70 USD, chỉ bằng 50% so với năm 1960. Trong thời gian đó, Thái Lan phát triển 350%, Nam Hàn phát triển 400%!
3) Lòng chia rẽ đầy hận thù Quốc – Cộng được Cộng Sản Việt Nam đẩy lên tột đỉnh. Hai thành phần của một dân tộc biến thành Ta với Địch, thành kẻ thù hay thậm chí kẻ tử thù của nhau. Không ai có quyền theo lý tưởng Tự Do, bởi vì tất cả những người không đồng ý theo miền Bắc, theo ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa đều bị qui là thành phần bán nước cần phải tiêu diệt.
4) Cuộc chiến nhiều lần tàn phá các thành phố lớn, gieo rắc vào dân tộc tính độc ác man rợ. Cuộc tổng nổi dậy Mậu Thân thực chất là một cuộc vi phạm thỏa thuận ngừng bắn giữa hai phe tham chiến, trong đó phe Cộng Sản lật lọng và tiến công miền Nam giữa lúc thỏa thuận ngừng bắn để dân chúng đón Tết cổ truyền vẫn còn hiệu lực. Trận chiến Tết Mậu Thân là cuộc thảm sát giữa người Việt theo phe miền Bắc đối với người dân miền Nam. Riêng tại Huế, cả thành phố phải chít trắng khăn sô: những kẻ cầm súng theo Cộng Sản đã giết trên 5.000 thường dân không phương tiện tự vệ! Con số nạn nhân đã kinh hoàng, cách thức và tính dã man của việc giết người càng kinh hoàng hơn!
5) Việt Nam mất đi các đảo trong quần đảo Hoàng Sa về tay Trung Cộng. Khi cuộc chiến lên cao độ, khi toàn bộ sinh lực miền Nam phải dồn vào chống trả cuộc xâm lăng của miền Bắc, Trung Cộng, nước đồng minh viện trợ vũ khí, lương thực để miền Bắc tấn công miền Nam, tiến chiếm các đảo Hoàng Sa của miền Nam. Chính phủ miền Nam kiên quyết đánh trả. Do cùng lúc phải chống trả hai cuộc chiến, cuộc chiến trên đất liền do miền Bắc tiến công và cuộc chiến ngoài biển do Trung Cộng tấn công, miền Nam thất bại trước Trung Cộng. Đây là bước ngoặc bi thảm cho dân tộc vì tạo đà cho Trung Cộng lần lượt chiếm các đảo khác của Việt Nam, lấy mất một phần lớn tài nguyên biển của Việt Nam và tạo gọng kiềm quân sự uy hiếp toàn bộ lãnh thổ đất liền của chúng ta sau này.
Trước việc xâm chiếm này, chính quyền miền Nam yêu cầu miền Bắc hợp tác cùng lên tiếng phản đối Trung Cộng trên các diễn đàn quốc tế thì miền Bắc im lặng. Trong khi đó họ tuyên truyền trong giới chiến binh của họ rằng Trung Cộng là đồng minh chí cốt,Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là chiếm cho miền Bắc, chờ khi miền Bắc thắng miền Nam thì Trung Cộng sẽ trả các đảo đó lại cho nước Việt Nam thống nhất!
6) Việt Nam đã chống lại Mỹ, một siêu cường không có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, một việc mà nhà chính trị xuất sắc của thời đại, ông Lý Quang Diệu cho là ngu ngốc. Lịch sử thế giới thời đó và tới tận bây giờ cho thấy các nước đồng minh của siêu cường này đều phát triển kinh tế xã hội vượt bậc. Trong khi đó Việt Nam lại buộc mình vào vòng lệ thuộc Trung Cộng, một quốc gia có tham vọng truyền kiếp xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia Việt Nam đồng thời nô thuộc dân tộc Việt, quốc gia đó sẽ trở thành siêu cường quân sự vài chục năm sau, và hiện đã/đang tiến hành xâm chiếm lãnh thổ đất liền và biển đảo của quốc gia Việt Nam.
6) Toàn bộ Việt Nam bị đặt dưới chính thể Độc Đảng và Toàn Trị, mở ra một thời kì nhiều bi thảm và bế tắc cho dân tộc. Chúng ta sẽ xem xét việc này trong bài 4 tiếp theo (Bài 4: Sự Lãnh Đạo Toàn Diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam).
Tiếp theo cuộc Kháng Chiến 9 Năm Chống Pháp, Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước mang lại những tai họa khủng khiếp và lâu dài cho dân tộc như đã trình bày ở trên, và chắc hẳn rằng đa số người Việt Nam đã cùng nhìn thấy.
Nếu như Sự Cần Thiết của Cuộc Kháng Chiến 9 Năm Chống Pháp là đề tài còn được tranh cãi, thì Tính Phi Lý của Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước đã được đa số đồng ý. Tác giả tin chắc rằng, nếu tiến hành một điều tra xã hội học một cách thực sự khoa học và độc lập, đại đa số ý kiến người dân cho rằng Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước vô nghĩa và tai hại. Tất nhiên, đảng Cộng Sản đương quyền không bao giờ dám tiến hành một công việc như vậy, và cũng không bao giờ cho phép các thành phần độc lập trong xã hội làm điều đó.
Trong lúc cuộc chiến nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn đang được đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân danh Chống Mỹ Cứu Nước, quyết tâm tiến hành, nhà lãnh đạo miền Nam, ông Ngô Đình Nhu, đưa ra nhận định:
Thực ra thì
dù chính sách của Pháp có thiển cận, chúng ta cũng có thể đòi lại độc
lập với ít tổn thất sinh lực hơn. Chính lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga
Sô và Trung Cộng đã khiến cho phe Cộng Sản Việt Nam chọn chiến tranh
thay vì đấu tranh chính trị. Nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rõ ý đồ
của Nga và Trung Cộng, thì có thể họ đã từ chối làm đồng minh với Cộng
Sản như Ấn Độ.
Dù không đồng
ý, chúng ta cũng thông cảm việc các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đồng
minh với Nga Xô để giành độc lập. Nhưng sau đó, để lãnh đạo công cuộc
phát triển đất nước, họ phải thoát khỏi vòng ảnh hưởng của hai khối Tự
Do và Cộng Sản, nếu họ nhận thức rõ:
1) Thâm ý
chiến lược của Nga và Trung Cộng. Chủ nghĩa Cộng Sản thực ra chỉ là một
phương tiện tranh đấu của những Nga trước đây, và của Trung Cộng hiện
nay.
2) Cần chấm dứt đồng minh với Cộng Sản khi không còn ích lợi cho dân tộc.
3) Đối với
Việt Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều
đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.
Tai họa thay,
các nhà lãnh đạo Bắc Việt đã không thoát ra khỏi ảnh hưởng đó, và Việt
Nam biến thành chiến trường của tranh chấp Tự Do – Cộng Sản. Mâu thuẫn
giữa hai khối, lẽ ra là cơ hội, biến thành tai họa tàn phá khủng khiếp
sinh lực của đất nước! (Chính Đề Việt Nam. Ngô Đình Nhu. Phần III, Điều Kiện Nội Bộ).
Ông Ngô Đình Nhu tiên đoán:
Việt Nam đã
ra ngoài vòng chi phối của Trung Hoa gần một thế kỉ. Nay, khi tự đặt
mình dưới sự chi phối của Trung Hoa, các nhà lãnh đạo miền Bắc đã đặt
dân tộc trước viễn cảnh khủng khiếp là lệ thuộc Trung Hoa, mà kinh
nghiệm ngàn năm qua cho thấy thực là tàn khốc.
Hiện nay miền
Bắc đang tiến hành xâm chiếm miền Nam. Sự tồn tại của miền Nam, dưới
ảnh hưởng của khối Tự Do, có vai trò cực kì quan trọng: nó chưa cho phép
Trung Cộng thống trị Việt Nam. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn
tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Vậy chúng ta bảo vệ miền Nam không chỉ cho miền Nam, mà còn giữ một lối
thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa (Chính Đề Việt Nam. Ngô Đình Nhu. Phần III, Điều Kiện Nội Bộ).
Từ đó ông Ngô Đình Nhu đề nghị:
Và vì vậy
cho nên, chúng ta thành khẩn mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc, kịp
thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của dân tộc, không còn nên
tiếp tục sự trụ đóng vào phương tiện Cộng Sản nữa (Chính Đề Việt Nam. Ngô Đình Nhu. Kết Luận).
Đến nay đã hơn 55 năm kể từ ngày mất của hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, đã 40 năm sau ngày miền Bắc chiến thắng miền Nam. Khi đối chiếu những gì ông Nhu viết với các thực tế đã xảy ra từ đó tới nay, chúng ta ngạc nhiên vì mức độ chính xác của những lời tiên đoán. Với quan điểm không hề tôn sùng bất kì cá nhân nào, lãnh tụ nào, mỗi khi đọc lại tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu, tác giả thấy rõ rệt, trên từng dòng chữ, kiến thức và tầm nhìn của một nhà chính trị có viễn kiến cùng tấm lòng thiết tha với vận mệnh lâu dài của đất nước.
Các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, những người đưa dân tộc vào Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước vô nghĩa và thảm khốc, có tấm lòng này không? Có kiến thức và tầm nhìn này không?
Nếu nhìn lại tiến trình lịch sử, cùng các hậu quả của nó, Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước do đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo mang lại Hạnh Phúc hay Tai Họa cho đất nước?
Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước đưa Việt Nam tiến bước lên hàng ngũ các nước độc lập, giàu mạnh, văn minh hay đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc, chậm tiến, suy thoái?
Trần Quí Cao
15-04-2015
(anhbasam.wordpress)
No comments:
Post a Comment