“Đảng
Cộng sản Việt Nam (CSVN) từ Trung ương xuống Cơ sở đã bị “tê liệt thần
kinh ” bởi hai vi khuẩn “kiên định” và “định hướng” nên đất nước và
người dân càng ngày càng lạc hậu, chậm tiến mà Đảng là “lực cản” thì cứ
“ì ra” trước nguy cơ Bắc thuộc thêm lần nữa.”
Trước hết là chuyện tiếp tục kiên định
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đã phá sản để
hão huyền xây dựng đất nước “qúa độ lên xã hội chủ nghĩa”.
Ai cũng biết thế giới Cộng sản không còn
từ khi Liên bang Xô viết chính thức tan rã năm 1991, tiếp theo sau hàng
loạt các chính phủ Cộng sản Đông Âu bị nhân dân nổi lên lật đổ. Ngay tại
nước Nga, nơi ra đời của Đế quốc Cộng sản để lãnh đạo một nửa Thế giới
được ngụy danh là “khối các nước Xã hội Chủ nghĩa”, sau 70 năm thống
trị, cũng đã phải đầu hàng trước sức mạnh vùng lên đạp đổ bạo quyền của
người dân trong cuộc cách mạng không đổ máu năm 1990.
Bây giờ cả thế giới chỉ còn lại 4 nước Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Triều Tiên và tiếp tục ôm lấy Chủ nghĩa vô sản Mác-Lênin làm kim chỉ nam hành động, theo nhu cầu và điều kiện riêng của mỗi nước.
Riêng Trung Cộng, từ khi Lãnh tụ tối cao Đặng Tiểu Bình ( )
lên nắm quyền lãnh đạo Trung Hoa từ trong bóng tối năm 1975, đã từ bỏ
chủ trương của các Chính phủ tiền nhiệm thời Mao Trạch Đông để mở cửa
cho Trung Hoa nhìn ra nước ngòai và mời Doanh nhân các nước Tư bản vào
làm ăn để xây dựng đất nước.
Nhưng ông Đặng không làm kinh tế “hà
khắc” theo Chủ nghĩa Mác-Lênin mà chủ trương một nước Trung Hoa phồn
thịnh dựa vào “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Không có sách vở hay tài liệu nào giải
thích tường tận về thế nào là “đặc sắc Trung Quốc”, nhưng Tổng Bí thư
đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân ( )
khi cầm quyền từ ngày 24 tháng 6 năm 1989 (đến ngày 15 tháng 11 năm
2002), đã làm sáng tỏ chính sách mới của giai cấp lãnh đạo hậu Mao là
làm theo chủ thuyết ba Đại diện: “Đảng cộng sản Trung Quốc đại diện cho
lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện
lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc.”
Chính sách vươn lên, hay còn được gọi là
“chỗi dậy” của Trung Quốc khổng lồ có trên 1 tỷ dân đã được Tổng Bí thư
đảng kiêm Chủ tịch Nhà nước Hồ Cẩm Đào, người thay thế Giang Trạch Dân
và sau đó, từ năm 2012, đến phiên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Tập Cận
Bình tiếp tục khai phóng tòan diện trên tất cả mọi lĩnh vực trọng yếu
gồm kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, ngọai giao và quốc phòng để đưa
Trung Hoa lên hàng cường quốc kinh tế, chỉ đứng sau Hoa Kỳ và đang canh
tân hóa quốc phòng để cạnh tranh với Nhật Bản ở Á Châu.
Trong khi đó thì hai nước Cộng sản nhỏ Bắc Triều Tiên và
còn tiếp tục chính sách độc tài một đảng cầm quyền vì sợ mở cửa cho Tư
bản vào làm ăn sẽ mất quyền lãnh đạo. Họ chỉ tồn tại nhờ phần lớn vào sự
giúp đỡ tài chính và đầu tư của Trung Cộng, Nga và viện trợ nhân đạo
của Liên Hiệp Quốc.
Riêng Việt Nam Cộng sản thì đã có cơ hội
“thóat Cộng” từ năm 1990, nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng khi ăn
phải bùa cùng chung bảo vệ “ý thức hệ Cộng sản” của Đặng Tiểu Bình và
Giang Trạch Dân tại Hội nghị bí mật ở Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990.
Trong 2 ngày Hội nghị 03/09 – 04/09
(1990), phái đòan Việt Nam còn có Cố vấn Phạm Văn Đồng tham dự, đã hoang
tưởng sa vào cạm bẫy để thỏa mãn theo yêu cầu và quyền lợi của Trung
Quốc ở chiến trường Cao Miên và ở Việt Nam để được nối lại bang giao với
Bắc Kinh, sau thời gian hai nước gián đọan từ cuộc chiến tranh biên
giới năm 1979.
Sau Hội nghị Thành Đô, hai nước không
công bố bất cứ tin tức nào nhưng sau khi quân Việt Nam rút khỏi Cao Miên
năm 1989 thì nước này đã “nằm gọn” vào tay Trung Quốc và sự lệ thuộc
kinh tế và chính trị của Ai Lao vào Bắc Kinh sau đó cũng đã khiến cho
Việt Nam bị Trung Quốc bao vây ở biên giới phía Tây.
Riêng đối với Việt Nam thì những nhượng bộ về biên giới, vịnh Bắc bộ, dự án khai thác Bauxite ở
và sự có mặt của các Doanh nghiệp Trung Quốc trong 90% dự án kinh tế
cũng đã qúa đủ để trả lời câu hỏi: Tại sao lãnh đạo Việt Nam đã bị kiểm
soát bởi Bắc Kinh.
Vì vậy, không có gì để ngạc nhiên khi
thấy “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” được chấp thuận tại Đại hội đảng Khóa VII năm 1991 đưa ông Đỗ Mừơi
thay Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã viết bằng giọng điệu hồ hởi: “ Chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với
phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến
hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát
triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi
phục…. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản
chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ
bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên
sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.
Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của
nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản….”
Quan điểm chật hẹp và đầy hoang đường của
đảng CSVN còn nói thêm rằng:”Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay
của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác
nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.”
Giờ đây, 24 năm sau Hội nghị Thành Đô mà
lối suy luận mơ màng “loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”
vẫn còn được lập lại trong kỳ Đại hội đảng XI năm 2011 khi Cương lĩnh
1991 được “bổ sung, phát triển”.
Thái độ không thực tế và không chịu nhìn
vào sự thật là thế giới ở Thế kỷ 21 không còn là thời kỳ “đồng đá” mà là
thời đại của điện tử với mọi việc có thể thay đổi từng giây nên Lãnh
đạo Cộng sản Việt Nam cứ tiếp tục ngủ quên trong giấc mơ hư ảo để “qúa
độ lên xã hội chủ nghĩa” mà vẫn chưa biết “cửa thiên đàng” ở đâu, sau
khi đã “qúa độ” từ thập niên 60 !
ĐỊNH HƯỚNG ĐI ĐÂU ?
Thảm trạng không dám “thoát Cộng” rồi bây
giờ không dám “thoát Trung” sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 tự do đến
ngày 02/05 (2014) rồi thanh thản ra đi khỏi vùng biển Việt Nam ngày
15/07 (2014) đã cho ta thấy rõ cái não trạng sợ hãi và ươn hèn của đảng
CSVN đối với nhiệm vụ bảo quyền lợi của dân và của nước bi thiết đến
nhường bao ?
Một thái độ “im hơi lặng tiếng” đến lạnh
người của đảng và nhà nước CSVN từ sau khi gìan khoan HD 981 rút về phía
nam đảo Hải Nam (Trung Cộng) dường như đã phản ảnh sự hài lòng tự mãn
của lãnh đạo vừa ra khỏi cơn ác mộng.
Cũng từ khi gìan khoan rút đi, không còn thấy Việt Nam bắn tiếng “đã chuẩn bị sẵn hồ sơ đấu tranh pháp lý” với Trung Quốc nữa.
Phản ứng về HD 981 rút lui đến sớm nhất từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại pohiên họp của Chuính pohủ ngày 16/07/2014.
Bản tin của Chính phủ viết: “Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ
quyền thiêng liêng của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp và các biện pháp
phù hợp với luật pháp quốc tế; yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi
hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam.”
Trong khi đó, tại cuộc họp báo thường lệ
ngày 24/07/2014 khi được hỏi: “Trung Quốc di chuyển giàn khoan có khiến
Việt Nam từ bỏ việc kiện Trung Quốc không? Việt Nam có theo dõi tiếp
hành động của Trung Quốc ở Biển Đông?”
Người phát ngôn Bộ Ngọai giao Việt Nam,
Lê Hải Bình, đáp: “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán của mình bằng biện pháp hòa bình. Hiện cơ quan
chức năng Việt Nam đang theo dõi chặt chẽ hoạt động các bên liên quan ở
Biển Đông.”
Phản ứng của các chuyên viên Việt Nam và
nước ngòai trên các diễn đàn, kể cả tại cuộc Hội thảo Quốc tế về Biển
Đông tại Đại học Tôn Đức Thắng ở
trong hai ngày 25 và 26/07/2014, đã khuyên Chính phủ Việt Nam nên nghĩ
đến việc sử dụng luật pháp Quốc tế và Luật biển Liên Hiệp Quốc năm 1982
để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án Quốc tế, sau khi các giải pháp
ngoại giao với Trung Cộng không đem lại kết qủa.
Cho đến khi HD 981 rút đi, Việt Nam đã
chủ động ít nhất 30 cuộc tiếp xúc với các cấp liên hệ của Trung Cộng
nhưng thất bại, vậy mà Chính phủ Việt Nam vẫn không dám kiện thì phải có
lý do tại sao họ sợ.
Lá bài tẩy của Trung Cộng có trong tay
nhiều hay ít thì phải hỏi các nguyên Tổng Bí thư đảng CSVN Đỗ Mười, Lê
Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Họ là nhóm 6 người biết rõ mọi việc,
không ai khác, hiểu rất rõ hai chữ “đại cục” là “những chuyện lớn” của
hai nước Việt-Trung đã được thảo luận ở Thành Đô năm 1990 mà nguyên Bộ
trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch từng cảnh báo:”Một thời kỳ Bắc thuộc
rất nguy hiểm đã bắt đầu.”
Đây là hậu qủa nhãn tiền của Hội nghị
Thành Đô khi các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đã bằng
lòng với “lý tưởng tương đồng”, hay “cùng chung bảo vệ lý tưởng Cộng
sản” để đẩy đất nước và dân tộc vào ổ khoá của Bắc Kinh từ đó đến nay mà
vẫn chưa “tởn tóc gáy” với những phản bội của Trung Cộng ở chiến tranh
biên giới 1979, cuộc chiến Trường Sa năm 1988 và đe dọa mất Biển Đông
năm 2014.
Cũng với chiều hướng bị động này là chủ trương “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Khác với nền kinh tế làm theo “chủ nghĩa
đặc sắc Trung Quốc” của Bắc Kinh, kinh tế Việt Nam “theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” đích thực là nền kinh tế làm theo chủ nghĩa Tư Bản mà
đảng CSVN không dám thừa nhận.
Sở dĩ nền kinh tế “giở giăng giở đèn” này
của Việt Nam chưa được Hoa Kỳ và nhiều nước tư bản khác nhìn nhận là
“nền kinh tế thị trường” để được hưởng các quyền lợi thuế quan khi xuất
khẩu vì đảng CSVN chưa từ bỏ quyền “chủ qủan” nền kinh tế và dành cho
Doanh nghiệp Nhà nước nhiều đặc quyền và điều kiện kinh tế, tài chính,
thuế khóa, thuê mướn mặt bằng hơn các công ty nước ngòai.
Chính sách đối xử của Nhà nước giữa các
công ty nước ngòai, đặc biệt với các doanh nghiệp không phải của Trung
Quốc cũng có nhiều chênh lệch, bất công.
Ngoài ra quyền của người lao động cũng
không được bảo đàm trong nhiều lĩnh vực từ lương bổng đến điều kiện làm
việc và nghiệp đòan đều do Nhà nước qủan lý qua Tổng Công đòan Lao động
Việt Nam.
Vì vậy, tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN (Nghị quyết số 21-NQ/TW) ngày
14/07/2014, các diễn gỉa đã kết luận:”Chất lượng thể chế kinh tế chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới mạnh mẽ sang kinh tế thị trường, chưa trở
thành động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh
quốc gia; nhận thức về phạm trù, nội hàm của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, nhất là định hướng XHCN còn chưa đủ rõ; chưa có đột phá lớn
trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội theo cơ
chế thị trường; môi trường kinh doanh, vẫn chưa thực sự đảm bảo cạnh
tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế;
việc gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của doanh nghiệp còn
gặp nhiều rào cản, chi phí gia nhập thị trường còn lớn; công tác quản
lý, điều hành giá còn lúng túng, bất cập.”
Bản tin của Cổng thông tin Chính phủ viết
tiếp: “ Nhiều ý kiến đề xuất cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực sự tạo
“sân chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp; dứt khoát thực hiện giá cả
theo thị trường, tính đúng, tính đủ các yếu tố hình thành giá, đi liền
với đó là thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ người nghèo, người yếu
thế trong xã hội; từng bước thoát khỏi tư duy bao cấp trong xây dựng và
thực thi thể chế kinh tế…”
“Phát biểu kết luận cuộc họp, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, báo cáo sơ
kết phải bám sát nghị quyết để đánh giá những mặt được, những mặt chưa
được, chỉ rõ nguyên nhân và đề ra mục tiêu, giải pháp theo tinh thần cái
nào còn phù hợp tiếp tục khẳng định; mặt nào cần bổ sung, phải tiếp tục
bổ sung.”
Ông Dũng nói: “Những gì làm chưa tốt phải
chỉ đích danh, cụ thể, phải điểm mặt những gì chưa làm được theo nguyên
tắc thị trường; những gì phải sửa, để thực sự là thị trường, thực sự là
minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh, nhất là vấn đề về giá, nếu chưa thực
hiện theo thị trường phải tiến tới thực hiện giá thị trường; việc phân
bổ nguồn lực cũng phải phân bổ theo nguyên tắc thị trường; đã là kinh tế
thị trường phải vận hành đầy đủ theo quy luật thị trường.”
Như vậy đã hai năm rõ mười về tính “mơ
hồ” và “đi trên mây trên gió” của những cái đầu Lãnh đạo CSCVN đối với
những con vi khuẩn độc hại vê “kiên định” và “định hướng” chưa, hay còn
phải thảo luận tiếp tại Hội nghị Trung ương 10 sắp tới và sau đó tại Đại
hội đảng XII năm 2016 thì may ra “đảng ta” mới “sáng mắt sáng lòng”?
Phạm Trần
(07/014)
(07/014)
No comments:
Post a Comment