La Thành: Cái
khó của câu trả lời không phải là việc gọi tên những thử thách, chắc
chắn đó là một danh sách rất dài, mà là việc phân loại và phân cấp
những thách thức đó. Trong sơ đồ của tôi, thách thức lớn nhất, bao
trùm nhất sẽ đối diện với chính quyền hậu cộng sản đầu tiên của nước
Việt là sự điêu tàn của văn hoá. Mọi thách thức khác đều là thành
phần, là hệ luỵ của thách thức này.
Ở
phân cấp thứ nhất của bức tranh văn hoá tăm tối đó, chúng ta sẽ quan
sát thấy hai thành tố: sự mông muội của luật pháp và sự nhem nhuốc của
đạo đức. Là hai tiểu phạm trù của văn hoá, luật pháp và đạo đức được
tách bạch theo cách thức chúng điều chỉnh các hành vi văn hoá của con
người: luật pháp điều chỉnh bằng ý thức về sự công bằng và sự bất
công, còn đạo đức thì điều chỉnh bằng ý thức về cái tốt và cái xấu;
những hành vi bất công sẽ bị trừng phạt, còn những hành vi xấu xa sẽ
bị chê cười. Một khi sự bất công thì được bảo vệ, còn sự [đòi hỏi]
công bằng lại bị trừng trị; một khi người đứng đầu chính quyền của cả
nước công khai bao che những kẻ tẩu tán hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế
của dân, trong khi lại sai tay chân nhân danh công quyền đập phá nhà
cửa và dựng án bỏ tù người bất đồng chính kiến thì nền luật pháp đó là
thứ luật pháp của các băng đảng lục lâm thảo khấu. Một khi xã hội vô
cảm với cái đê tiện, dửng dưng với cái mã thượng, lấy độ dày của ví
tiền làm thước đo của thành công, giản quy các mối quan hệ xã hội
thành các tương tác ‘có đi có lại’, ‘ông trao tiền, bà trao thịt’ thì
nền đạo đức đó là thứ đạo đức của đĩ điếm. Những thách thức này nghiêm
trọng ở chỗ chúng bao trùm lên và thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Không đơn thuần chỉ phải xây dựng lại hệ thống pháp luật
về mặt văn bản, một công việc vốn dĩ đồ sộ, chế độ mới còn phải trao
hiệu quả cho hệ thống đó để nhà nước của họ thực sự là nhà nước pháp
quyền. Việc khôi phục uy quyền cho các giá trị đạo đức đã thất thế
cũng đòi hỏi những nỗ lực thành thật và bền bỉ.
Trong
một tiêu chí phân cấp khác, lưu ý đến các lực lượng xã hội của văn
hoá, chúng ta hãy kì vọng rằng nền dân chủ trong tương lai phải chủ yếu
do giai cấp trung lưu với nòng cốt là tầng lớp trí thức lĩnh xướng.
Về nền tảng kinh tế, lực lượng xã hội này bao gồm các doanh nhân vừa
và nhỏ, các nhà chuyên môn có thu nhập ổn định từ nghề nghiệp của mình
như học giả, kĩ sư, bác sĩ, văn sĩ, giới công nghiệp biểu diễn – giải
trí v.v., có địa vị kinh tế trung gian giữa tầng lớp thượng lưu và
quần chúng lao động. Về xu hướng chính trị, họ được kì vọng là những
người có tư tưởng dân chủ triệt để và theo đuổi một chủ nghĩa dân tộc
ôn hoà. Về phẩm chất tinh thần, họ được trông mong là những người có
tư duy độc lập, thượng tôn chân lí khách quan, bất khuất trước bạo
quyền. Những đại diện của họ cần phải chiếm đa số trong các thiết chế
nhà nước tương lai, đặc biệt là trong nhánh lập pháp. Nhưng vào thời
điểm này, một giai cấp trung lưu và tầng lớp trí thức như thế thực sự
chưa có, vì vậy thật khó để nói về giai cấp và tầng lớp này sau mươi,
mười lăm năm nữa. Nếu toà nhà dân chủ tương lai được trông cậy vào
những kiến trúc sư và thợ xây như thế nhưng lực lượng này lại chưa
thành hình hoặc còn non yếu, thì đó là một thử thách vô cùng nan giải.
Khi
xét đến cấu trúc nội dung của văn hoá, tương ứng với các lĩnh vực
hoạt động của con người, nền văn hoá sẽ bao gồm các địa hạt như chính
trị, kinh tế, giáo dục – đào tạo, v.v., và điểm hạnh kiểm của văn hoá
sẽ được cộng lại từ phẩm chất của các thành tố này.
Về
chính trị, mặc dù Đảng Cộng sản đã phải từ giã địa vị thống trị,
nhưng con người, văn hoá chính trị, đạo đức hành xử và tác phong làm
việc của nó vẫn còn đó, tạo nên một trong những thách thức thực tiễn
lớn nhất đối với công cuộc xây dựng chế độ mới. Hãy quan sát nước Nga
trong hơn hai mươi năm qua để thấy cái di sản toàn trị kia đã đeo bám
dai dẳng và cản trở dân chủ hoá đến mức nào. Tôi đặc biệt lưu ý đến
sức ì của của văn hoá chính trị toàn trị. Ở Đông Á, trật tự Khổng giáo
từ hàng nghìn năm trước chính là một thứ chủ nghĩa xã hội phong kiến,
và sự hội ngộ giữa nó với chủ nghĩa Marx-Lenin tại đây hồi đầu thế kỷ
XX là một cuộc ‘tri kỷ tương phùng’: chủ nghĩa xã hội hiện thực trong
hơn nửa thế kỷ qua ở Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam thực chất là sự
thực hành Khổng giáo dưới một hệ thống thuật ngữ mới. Một phần tư thế
kỉ sắp trôi qua từ các biến cố chính trị ở Liên Xô cũ và Đông Âu, văn
hoá là yếu tố chủ chốt đã cầm chân được các đảng cộng sản Đông Á ở địa
vị cầm quyền. Vì vậy văn hoá vẫn sẽ là yếu tố chủ chốt thách thức các
nền dân chủ tương lai tại đây.
Về
kinh tế, mặc dù Đảng Cộng sản đã đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành
quốc gia phát triển vào năm 2020, tức là chỉ sau 8 năm nữa, nhưng tôi
tin chắc rằng vào thời điểm đó, nền kinh tế nước Việt vẫn tiếp tục là
một nền kinh tế có cơ cấu thiên về xuất khẩu nông sản và những sản
phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ thấp, công nghiệp vẫn tiếp tục là
một nền công nghiệp phục vụ ngoại bao (outsourcing) cho các thương
hiệu nước ngoài, có thể với quy mô lớn hơn hiện nay, và thặng dư của
toàn bộ nền kinh tế vẫn dựa vào chính sách trả lương thấp cho tuyệt
đại bộ phận người lao động. Đơn giản là sơ đồ kinh tế này lâu nay đã
và đang phục vụ đắc lực lợi ích của các nhóm tài phiệt kiêm đầu sỏ
chính trị, mà thi thoảng truyền thông chính thống chỉ định danh nhẹ
nhàng là các ‘nhóm lợi ích’, vốn là con cháu hay dây rợ của các gia
đình quý tộc cộng sản đã hoàn tất việc chuyển các tài sản nguyên thuộc
sở hữu toàn dân của thời kì xã hội chủ nghĩa kế hoạch hoá vào tay
chúng thông qua những cuộc cổ phần hoá mang đặc trưng ăn cướp. Cho dù
Đảng Cộng sản có thể phải từ bỏ độc quyền chính trị vào đầu thập kỉ
tới, sự tồn tại của một thiểu số tài phiệt đỏ hùng mạnh về kinh tế và
phản động về chính trị sẽ là một thách thức trực tiếp đối với các
nhiệm vụ kinh tế của nền dân chủ còn non trẻ, bao gồm việc tái cơ cấu
nền kinh tế và [tái cơ cấu] phân phối thu nhập.
Một
thách thức kinh tế khác được dự báo sẽ là những khoản nợ công khổng
lồ mà nạn tham nhũng và sự thua lỗ của các tập đoàn kinh tế quốc doanh
– những kẻ sử dụng và đánh cắp nhiều nhất các nguồn vốn vay mượn từ
bên ngoài – đang di chúc lại. Đồng thời, trong khi chính quyền cộng
sản thường xuyên rao giảng nhận thức về ‘phát triển bền vững’
(sustainable development), sự bất lực và giả dối của nó trong chiến
lược văn hoá này đang để lại cho thế hệ tương lai một môi trường sống
dơ dáy và ngập ngụa phế thải, các nguồn nước nhiễm độc và cạn kiệt,
rừng và các mỏ khoáng sản bị tàn phá, bị trộm cắp, bị cướp đoạt hoặc
bị bán tống bán tháo một cách man rợ và vô cảm.
Về
giáo dục – đào tạo, sự cổ quái của một nền giáo dục phản khai phóng
phục vụ chính trị trong hơn nửa thế kỉ sẽ đẩy đất nước vào tình trạng
thiếu hụt trầm trọng nhân lực chuyên nghiệp trong mọi lĩnh vực của đời
sống. Có thể hơi lạc đề một chút so với câu hỏi, nhưng tôi muốn nói
thêm rằng sự kém cỏi của nền giáo dục – đào tạo nước nhà như hiện nay
vừa là chỉ dấu, vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của sự thiếu vắng
một đội ngũ trí thức xứng tầm. Một đội ngũ trí thức như thế đáng lẽ đã
được hình thành và kế tục nếu không có những cuộc đàn áp và triệt hạ
khốc liệt nhằm vào trí thức liên tục trong các thập kỷ 50, 60 và 70
của thế kỷ trước. Trên thực tế, số lượng những người có học hiện nay
đông đảo hơn gấp nhiều lần so với đội ngũ có học cách đây bốn, năm
chục năm, song tuyệt đại đa số họ không tương xứng với danh từ ‘trí
thức’.Tôi được biết ở Đại học
Harvard đang có một chi bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng viên là
các lưu học sinh Việt theo học tại đó; hàng năm, chi bộ này vẫn liên
tục kết nạp đảng viên mới. Đây quả là một minh chứng đặc sắc cho chất
khai phóng của giáo dục Mỹ. Tôi tự hỏi trong số các Harvardian communist này, những ai rồi đây sẽ nhanh chóng giấu nhẹm đi đảng tịch cộng sản của mình để đầu quân cho nền dân chủ?
Trên
đây, tôi chỉ điểm qua những thách thức lớn nhất, tất định nhất đối
với nền dân chủ hậu cộng sản đầu tiên. Chung quy, mọi thách thức đều
có tên gọi khái quát là văn hoá.
Phạm Thị Hoài: Theo anh, xã hội Việt Nam sẽ cần bao nhiêu lâu để vượt qua di sản đó?
La Thành: Tôi
được thông báo một tin xấu và một tin tốt. Tin xấu là, trong một diễn
tiến thông thường, chúng ta sẽ phải chờ đợi để một thế hệ được thay
thế, trung bình khoảng 25–30 năm. Tin tốt là một chiến lược văn hoá
đúng đắn có thể giúp rút ngắn quãng thời gian chuyển trạng thái này.
Khi
quan sát tiến trình dân chủ hoá diễn ra từ các bộ phận của Liên Xô cũ
cho đến Đông Đức cũ, tôi nhận xét thấy quãng thời gian trễ đang đề
cập tỉ lệ thuận với khoảng cách đến đường biên giới địa lí của các nền
dân chủ truyền thống Tây phương. Đáng tiếc là nước Việt còn cách xa
đường biên giới ấy hơn cả nước Nga. Tuy nhiên, một chiến lược văn hoá
thông thái có thể giúp kéo ‘đường biên văn hoá’ của các nền dân chủ cổ
truyền lại gần chúng ta, đẩy lùi sự ‘câu giờ’ của văn hoá toàn trị.
Tựu trung vẫn là văn hoá.
Phạm Thị Hoài: Anh có thấy những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ cái di sản đó cần được giữ gìn?
La Thành: Câu trả lời của tôi chắc chắn là ‘Không’.
Trong
lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản, ‘văn hoá Đảng’ đã làm tổn thương
không ít truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, và có thể chưa kịp
tác hại đáng kể lên những truyền thống có sức sống mãnh liệt nhất.
Trong suốt thế kỷ XX, Đảng Cộng sản đã thủ lợi trên truyền thống yêu
nước và những truyền thống đẹp đẽ khác của người Việt. Nhưng một khi
cảm thấy một truyền thống hay nét đẹp nào đó có thể phương hại đến sự
tồn tại của nó ở địa vị thống trị, – thí dụ lòng ngay thẳng thượng tôn
lẽ phải, tinh thần bất khuất trước bạo quyền và gần đây nhất, ngay cả
lòng yêu nước, – nó sẽ xúc phạm và tấn công huỷ diệt những tố chất đó
không chùn tay.
Trong
cả thời chiến và thời trị của Đảng Cộng sản, bộ máy tuyên truyền của
nó đã xây dựng và ngợi ca nhiều tấm gương anh hùng hay gương ‘người
tốt việc tốt’ tiêu biểu. Nay thì đã rõ rằng những ‘điểm sáng’ kia hoặc
là sản phẩm thuần tuý của hư cấu (điển hình là ‘anh hùng’ Lê Văn
Tám), hoặc là một sự thật ít ỏi đã được tô vẽ đắp điếm. Bất luận
trường hợp nào, tác quyền của nét đẹp truyền thống xứng đáng được ca
ngợi chưa bao giờ thuộc về văn hoá Đảng.
Cha
tôi, một đảng viên cộng sản có trên 40 năm tuổi Đảng, sinh thời từng
nói với tôi rằng từ năm mươi năm trước, khi ông còn là một trai trẻ bị
cuốn vào cơn bão chính trị do Đảng Cộng sản khởi xướng, ông đã nhận
ra rằng khôn lỏi, dối trá và thủ đoạn luôn luôn là bí quyết thành công
dưới chế độ cộng sản. Có thể nhận định một quy luật rằng các món ăn
‘gương sáng’ do Đảng Cộng sản chế biến và dọn ra bàn tiệc tuyên truyền
của nó mới đầu thường thuộc về giai tầng thấp nhất của xã hội. Một số
sau đó có thể được cất nhắc lên thứ bậc cao hơn, ở đó anh/chị ta hoặc
phải đê tiện hoá để thích nghi với thành phần giai cấp mới, hoặc bị
đào thải và rơi trở lại địa vị xuất phát nếu không chịu từ bỏ đức
trung thực.
Văn hoá Đảng Cộng sản quả thật có một truyền thống chủ đạo: sự dối trá. Có điều khó ai có thể đồng ý rằng di sản đó cần phải được giữ gìn.
Phạm Thị Hoài: Khả
năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào, hay
tình trạng bạo loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận
chống thay đổi thể chế sẽ xảy ra?
La Thành: Điểm
lại lịch sử, Hungary năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968 đã bị quân đội
Liên Xô bình định bằng xe tăng và tiểu liên. Liên Xô và Đông Âu năm
1989 chuyển dịch thành công về dân chủ cơ bản trong hoà bình. Cuộc đọ
súng trước ‘Nhà Trắng’ Moskva tháng Tám năm 1991 chỉ là cuộc đọ súng
giữa hai thế lực của giai cấp thống trị cũ. Thiên An Môn năm 1989 bị xe
tăng của quân đội Trung Quốc dìm trong bể máu. Năm 2011, Ai Cập,
Yemen và Tunisia đã chuyển dịch thành công về dân chủ dưới họng súng
của giới cầm quyền, một bộ phận quần chúng đã phải đổ máu. Ở Libya,
công cuộc lật đổ chế độ Gaddafi đã phải đi qua một cuộc nội chiến ngắn
đầy máu lửa trước khi giành thắng lợi. Ở Syria, chính quyền Bashar
al-Assad đã tàn sát 8000 người biểu tình và chưa chịu buông rời quyền
lực. Trong tất cả các sự kiện vừa liệt cử, ở những nơi đã xảy ra bạo
lực kẻ rắp tâm giương súng bóp cò trước tiên luôn luôn là tập đoàn cầm
quyền. Ở Đông Âu, nơi mà nền văn hoá giàu truyền thống dân chủ hơn so
với Trung Đông và Bắc Phi, tập đoàn thống trị đã chấp nhận giã từ
quyền lực trong hoà bình một cách dễ dàng hơn.
Như
vậy, hoà bình hay bạo lực là sự lựa chọn văn hoá của tập đoàn cầm
quyền, chỉ phụ thuộc vào tập đoàn cầm quyền. Hy vọng rằng sau mươi năm
nữa, văn hoá chính trị của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khi ấy
sẽ cao hơn đáng kể so với thế hệ hiện nay, để họ có thể chấp nhận
buông tay khỏi quyền lực trong hoà bình trước đòi hỏi dân chủ của nhân
dân.
Phạm Thị Hoài: Trước khi ngày đó tới, anh sẽ làm gì trong năm 2012 này?
La Thành: Tôi đã bắt đầu cuộc lựa chọn văn hoá của mình từ năm ngoái rồi. Năm nay chỉ là sự tiếp tục.
Đầu
năm 2011, tôi đã quyết định chia tay với sinh hoạt Đảng. Tôi đã làm
việc đó một cách lặng lẽ, không gây ồn ào: tôi xin chuyển công tác khỏi
nhiệm sở cũ, điều này tất yếu kèm theo thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng
đến nơi mới. Ở nơi mới, tôi không nộp hồ sơ đảng viên nữa. Tôi chọn
cách từ giã Đảng như vậy để không ảnh hưởng gì đến các đồng nghiệp cũ
của tôi, bởi nếu tôi làm đơn xin ra khỏi Đảng một cách chính tắc, chi
bộ cũ của tôi cuối năm vừa rồi chắc chắn sẽ mất danh hiệu ‘Chi bộ Trong
sạch Vững mạnh’, một số đảng viên của nó có thể sẽ mất các danh hiệu
thi đua. Nhiều người vẫn còn cần những thứ đó và tôi tôn trọng họ.
Tôi
đang trên hành trình gột rửa văn hoá Đảng khỏi tâm hồn và cuộc sống
của tôi. Sự chuyển biến văn hoá đòi hỏi rất nhiều thời gian. Tôi e sẽ
không kịp nếu còn chưa bắt đầu hành trình ấy của bản thân mình. Tôi
không muốn mình sẽ ở trong số bốn triệu người phải lặng lẽ vứt thẻ đảng
và tập thay đổi thói quen ứng xử khi ra khỏi nhà vào những ngày đầu
đất nước được tự do.
Phạm Thị Hoài: Cảm ơn anh La Thành.
© 2012 pro&contra
Nhà văn Phạm Thị Hoài
Gửi cho BBC từ CHLB Đức
No comments:
Post a Comment